Thứ nhất, hội thế nào cũng dựa vào một lễ. Lễ dù có gắn với hội nhưng có
thể tách riêng. Còn hội thì dứt khoát phải có lễ để lấy bình phong tôn giáo che
chở cho những việc làm mà ngày thường rất khó thực hiện.
Thứ hai, hội là của cộng đổng, không phải của gia đình và thế nào cũng
cổ những trò vui, hội là để vui chơi cho nên người ta nói “vui như hội”.
Thứ ba, hội thê nào cũng phải có nữ, không có nữ không thể có hội
hè gì hết. Và then chốt của mọi hội hè là để nam nữ gặp nhau, trao đổi tâm
tình.
Thứ năm, trong một xã hội nông nghiệp, hội lễ do chu kì nông
nghiệp quyết định, trước hết là chu kì cây lúa nước.
Các đặc điểm này đan xen vào nhau, không tài nào tách riêng ra được.
Tách một yếu tố ra để xét chẳng qua vì nhu cẩu nêu bật một yếu tô nào đó mà
thôi. Yếu tố này có thể nổi bật đến mức che mờ các yếu tố khác nhưng trong tâm
thức người dán quen với cuộc sống nông nghiệp không có tình trạng một yếu tố duy
nhất chi phối toàn bộ một lễ hội như ta có thế thấy ở một cư dân công nghiệp.
Ta tạm thời xét trước vai trò của sinh hoạt nông nghiệp, xuất phát
từ nghề trồng lúa tới lễ hội ở hai mặt: thời gian và nội dung của ý nghĩa phồn
thực.
-
Lề hội chỉ có thể tổ chức vào dịp nghề nông rảnh rang, đồng thời do vụ thu
hoạch có được lúa tiền để tiêu pha đôi chút bù đắp bao tháng trời hai sương một
nắng. Lúa có thể có hai vụ, mà chủ yếu là vụ tháng mười, sau đó là vụ tháng
năm. Không phải ngẫu nhiên nhân dân nói ”Tháng giêng là tháng ăn chơi” Trong
tác phẩm “60 lễ hội truyền thống Việt Nam” của Thạch Phương và Lê Trung Vũ, chỉ
riêng trong tháng giêng thôi đã có 37 lễ hội.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa việt nam