Lại phải có bộ máy chính quyền thống nhất. Muốn thế phải có chữ
viết để thực hiện việc cai trị thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Lại
phải có ba yếu tố khẳng định uy tín tuyệt đối của chính quyền trung ương.
Đó
là:
-
Thứ nhất, quyền duy nhất đúc tiền. Điều này đã được Lý Bốn thực hiện vào
thế kỉ thứ VII.
-
Thứ hai, là quyền duy nhất tuyển mộ quân đội.
-
Thứ ba, là quyền duy nhất thu thuế.
Nhưng muốn có một tinh thần dân tộc xuất phát từ tâm thức người dân bình
thường, sự thống nhất khổng thê dựa trên lười kiếm theo quan niệm xưa nay của
người Trung Quốc, theo chu trương sử dụng bạo lực của các hoàng đế Trung hoa,
mà ý thức phải xuất phát từ nhu cầu tổn tại chung cua mọi người dân chống lại
với một thiên nhiên khắc nghiệt, do đó, cũng không cần đến bạo lực. Nhà vua
cùng với dòng họ ông ta không phái là so hữu đất nước như các hoàng đế Trung
Hoa haycác vua thân ĐNA mà phái là người lãnh đạo được nhân dan đánh bại xâm
lủng và bảo vệ được đê điều. Do đó, mỗi lần có nguy cơ ngoại xâm thì ở Việt Nam
diễn ra một sự thay đổi triều dại nếu cần phái có người xứng đáng, chứ không
phải diễnra tình trạng chết, hi sinh cho dòng họ như ở Trung Hoa. Người Việt
Nam trung với nước, và nước là độc lập với dòng họ. Trung Quốc tự gọi nước mình
là Hán, Đường, Mông, Nguyên… theo tên nơi đại biểu cho dòng họ. Còn ở việt Nam
tên nước là độc lập với triều đại. Các triều đại Lý, Trần, Lê đều có chung tên
nước Đại Việt.
Ý thức về chủ quyền của dân tộc không thể ra đời ngay mà phải hình
thành dần dần, qua các cuộc khởi nghĩa. Đinh Bộ Lĩnh là ông vua đầu tiên mà
Trưng Quốc đành phải thừa nhận. Bài thơ của Lý Thường Kiệt? Khẳng định “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư”, ông vua của Việt Nam được nêu lên là hoàng đế ngang
hàng với Hoàng đế Trung Hoa. Ý thức chủ quyền dân tộc nếu như ở “Hịch tướng sĩ”
của Trần Quốc Tuấn chỉ thu hẹp vào cách nhìn của quý tộc thì đến “Bình Ngô đại
cáo” của Nguyễn Trãi năm 1427 là bản Tuyên ngôn đầu tiên về quyền tự quyết dân
tộc và định nghĩa đầu tiên của nhà nước dân tộc trên thế giới đã ra đời.