Đặc sắc của lễ hội


     Có hội là có hát và hát thường hai bên nam nữ đối thoại với nhau. Đây là dịp mượn một ngôn ngữ cách điệu hóa để nói được vừa thanh lịch vừa đằm thắm nhũng tình cảm kín đáo. Đồng thời, lại là lúc trổ tài giọng hát, tài nhớ, tài sáng tạo ứng khẩu thành thơ, kĩ thuật hát. Biết bao câu ca dao bất hủ là thoát ra từ những dịp như thế này. Khi đã được nâng lên và biến thành thể thức, nói thành truyền thống như hát quan họ, hát phường vải, hát dặm. hò, hát chèo đò v.v… Có những chàng trai, những cô gái trở thành của hiếm, nổi tiếng khắp vùng sau một buổi hát như vậy.

Đặc sắc của lễ hội

    Ngày thường con trai chạm vào người con gái thì “ăn tát”. Trong lễ hội thì không. Thần linh và Đức Phật chấp nhận một độ thân mật vừa phái. Chỉ kể “Hội Chen” làm thí dụ. Trong Hội Chen từ 15 đến 16 tháng giêng ở xã Nga Hoàng, Hà Bắc thờ Linh Sơn Mị Nương, nam, nữ già trẻ “chen” nhau ở đền và trên đường rước thần. Gái làng cũng “chen” nhau cả vào trai thiên hạ.
    Mơ ước có mùa màng tốt. con cái đông của cuộc sống kình đăng thời xa xưa thể hiện các nghi lễ phồn thực và tín  ngưỡng xa xưa bảo vệ xã hội chống lại truyền thống “nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho giáo. Đặc biệt ở Việt Nam lễ hội thường diễn ra ở nơi có nước non thanh tú, phong cảnh thiên nhiên cực đẹp tạo nên cảm hứng, có núi, có cây, rừng, sông nước cùng vui với mọi người, nhất là với tuổi trẻ, đồng hào miền núi, có những hội mà mục đích là để trai gái gặp nhau vui hát: hội chơi núi mùa xuân của người  hội hoa han của người Thái, hội mời Mẹ – Trăng của của người Tày, hội mừng măng mọc, của người Xá, người Xinh sụ Mun, người La Hủ.
    Trên cơ sở gốc ĐNA, người Việt tiếp thu các hội hè sau này của các nền văn hóa khác. Khi tiếp thu Phật giáo, người Việt không những thờ Thích Ca mà cá các vị chân tu của mình, có tục Ấn Độ, nhưng vẫn giữ những trò vui dân tộc. Thí dụ hội Chùa Thầy ở xã Sài Sơn, Hà Tây thờ Thích Ca và có lễ tắm tượng của Ấn Độ nhưng lại có hang Cắc Cớ trai gái luồn vào hang, một tục của người Thái Nghệ An, người Mường Hòa Bình khiến “trai chưa vợ nhớ hội Chùa Thầy”. Đấy cũng là nơi tưởng niệm thiền sư đời Lý là Từ Đạo Hạnh. Có trò cờ người, múa rối nước rất đặc sắc. Một hội nghinh ông xuất phát từ tín ngưỡng có thờ cá voi của người Chăm lại có hát bộc, hát bả trạo. Một hội Chùa ông vốn là lễ của người Hoa để thờ Quan Vũ, lại thờ là Thiên Hậu, Thần Tài và có lễ tắm tượng, thay áo biểu hiện tâm thức hỗn dung tôn giáo của người Việt.
    Mặc dù lễ hội đa dạng như vậy, nhưng yếu tố tạo nên sự thống nhất đó là tục thờ Mâu. Không phải ngẫu nhiên mà trong các chùa, các đền, đâu đâu cũng có bàn thờ Mẫu. Người Việt không nhìn các thần linh như những kẻ chỉ biết có quyền uy và trừng phạt. Thán, Phật đối với họ là cha là mẹ và họ là những đứa con sông trong tình thương của cha mẹ, cá cha mẹ dưới đất và cha mẹ ở thế giới siêu nhiên. Nêu đối xử với họ trọn tình, trọn nghĩa thì họ đủ tinh thần làm được mọi việc, không chỉ có Chủ nghĩa xã hội. Còn nếu chỉ biết có bạo lực, quyền uy thì họ sẽ xoay xở, khó cai trị. tục ngữ nói “Quan quyền thì dân gian” có nghĩa là đối phó với quyết lực dân sẽ dùng gian trá mà gian trá cua họ thiên biến vạn hóa không ai biết hết được.