Chiến tranh Việt Nam còn một đặc điểm rất tiêu biểu cho văn hóa
dân tộc là nó kết hợp đánh và đàm phán dùng chính sách tam công để hoàn tất sự
thắng lợi quân sự.
Một nước xâm lược phải tạo ra một lí luận để che giấu mưu đồ xâm
lược và thúc đẩy hàng triệu người chết cho nó. Lí luận của vua chúa Trung Quốc
là chủ nghĩa Đại Hán. Chủ nghĩa này mượn cớ mở rộng bờ cõi để khuếch trương văn
hóa, thường nhân lúc một nước bên cạnh có mâu thuẫn trong chính sự, chẳng hạn
một ông vua chết đi,ở triều đình lục đục, lấy tiếng điếu dân phạt tội để đem
quân sang. Nó là trái ngược với truyền thống Khổng giáo của Trung Hoa, Khổng tử
không hề chủ trương sử dụng vũ lực để đàn áp các dị tộc mà chủ trương dùng văn
hóa để lôi kéo các dị tộc theo văn hóa Hán. Thực dân Pháp mượn cớ bảo vệ đạo
Thiên Chúa và khai hóa các dân tộc lạc hậu, nhưng lí luận này là trái ngược với
văn hóa chân chính của Pháp chủ trương Tự do, Bình đẳng, Bác ái, “hòa bình với
các nhà tranh, chiến tranh với các lâu đài”, truyền thông đã được cách mạng
Pháp khẳng định. Đế quốc Mỹ chủ trương chống Cộng sản, bao vệ chế độ Tư bản,
nhưng về thực chất là chống lại văn hóa chân chính của Mỹ, khẳng định quyền tự
quyết của các dân tộc, quyền tự do chính trị và quyền sống của cá nhân.
Chủ trương của đối phương rất khác nhau nhưng mục đích trước sau
chỉ là để nô dịch Việt Nam. Còn Việt Nam để đối phó lại tiến hành một đường lối
quân sự rất sáng tạo, không thấy thể hiện ở các cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc của các nước khác. Việt Nam khẳng định nguyên lý chiến tranh là bất đắc dĩ.
Người Việt Nam chỉ muốn hòa bình. Vì hòa bình cho nên có những nhân nhượng nhất
định về kinh tế, văn hóa. Nhưng nhất định người Việt Nam không thể nhân nhượng
về chính trị, chịu mất nước. Vì để khẳng định tính chất văn hóa của cuộc chiến
tranh, cho nên Việt Nam tranh thủ cơ hội đàm phán với đối phương trên cơ sở văn
hóa chân chính của đối phương, bắt đối phương phải trở về với văn hóa chân
chính của mình, rút quân, chấp nhận Việt Nam độc lập.
Muốn tiến hành đánh và đàm phán có kết quả phải có một truyền
thống lịch sử làm hậu thuẫn cho đường lối, chứ không thể căn cứ vào lời nói.
Trong quan hệ với Trung Quốc, trước sau Việt Nam theo một chính sách không thay
đổi: tự nhận mình là nước tiếp thu văn hóa Trung Hoa, không bao giờ mượn cớ
Trung Hoa bị chia cắt, suy yếu để chiếm dù chỉ là một tấc đất, điều mà các dị
tộc chung quanh Trung Hoa (Thái Đát, Tiên Ti, Mông cổ, Mãn Châu, Hồi Ngột, Thổ
Phồn…) đều làm. Dù cho thiên triều nhiều lần khinh miệt Việt Nam, Việt Nam
trước sau vẫn tôn kính thiên triều, không bắt nạt thiên triều như các dị tộc
khác. Trung Quốc đem quân sang chiếm thì đánh trả chu đáo, nhưng sau đó là
thôi, không đòi hỏi gì, trái lại chấp nhận mình là chư hầu, nhận tước phong của
thiên tử. Đối xử tử tế với tù binh, hàng binh. Không ngược đãi, giết họ. Cho
phép quân Trung Quốc về, thậm chí ăn thề với kẻ bại trận. Trước sau cư xử theo
đúng truyền thống nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà Trung Hoa tự hào