Kết quả, họ có làng thì phải giữ cho được làng, có nước thì phải
giữ cho được nước. Giữ cho mình và cho con cháu. Làng là vật thuộc quyền sử
dụng của dân làng. Dân làng tạo ra nó, được chia ruộng của nó, chiến đấu chống
thiên tai, hạn hán bao đời mới tạo nên được. Cho nên dân từng làng một sẽ bảo
vệ làng mình đến cùng.
Bây giờ xét cơ sở văn hóa của truyền thống yêu nước rất độc đáo
của Việt Nam để thấy cái nét khác biệt của tinh thần yêu nước Việt Nam so với
các nước khác, mặc dầu dân nước nào mà chẳng yêu nước của mình.
Việt Nam vào thời tiền sử là một nước thuộc văn hóa ĐNA thì dĩ nhiên
quan niệm về nước thời tiền sử không khỏi mang đậm ảnh hưởng của văn hóa ĐNA. Câu
này của các sử gia Trung Quốc cần được đọc theo phiên âm mới đúng văn hóa ĐNA
mà hiện nay ta còn thấy phổ biến ở người Tày Thái.
Cách dùng chữ “gọi là” chứng minh không thể chối cãi rằng chữ Hán là để
phiên âm tên gọi địa phương. Khi còn thuộc phạm trù văn hóa ĐNA thì ông vua
không phải ông vua như sau này mà chỉ là người uy tín nhất, được các phía tạo
tôn xưng và phục tùng, nhưng các phía tạo vẫn độc lập trong lãnh thổ mình. Một
cuộc chống ngoại xâm có được liên minh của các vùng và do đó thắng lợi, nhung
sau đó lại tách ra ai lo đất người ấy, cho nên thiếu sức mạnh để chống lại
những cuộc xâm lăng mới. Các cuộc khởi nghĩa từ thời Hai Bà Trưng trở đi đều
thất bại là vì thế.
Chính Đinh Bộ Lĩnh là người mở đầu cho sự ra đời một nhà nước kiểu
mới, kiểu hiện đại. Từng yếu tố một đã hình thành dần từ trước, nhưng đến đời
Đinh mới tạo thành một ý thức dân tộc trọn vẹn. Có năm yếu tố căn bản.
Trước hết, phải có một hệ tư tưởng thống nhất. Đó là đạo Phật.
Tình hình này là chung cho ĐNA lục địa, cho nên không phải ngẫu nhiên mà sử xưa
nhận xét rằng quá nửa con trai lớn lên đều vào chùa một thời gian. Đây là tình
hình chung của ĐNA lục địa cho đến ngày nay. Chỉ từ đời Lý trở đi nhà nước mới
chuyển dần sang hệ tư tưởng Nho giáo.