Trong một nước có truyền thống yêu nước như Việt Nam dĩ nhiên các
vị anh hùng được thờ và có lễ hội riêng. Trong các lễ hội này, ngoài việc mở
hội mừng các vị thần, còn có các trò có tính chất thượng võ như hội vật, hội
diễn trò đánh trống trận, thi côn, kéo co, cờ lau tập trận v.v… Riêng vé vật
rất phổ biến ớ các hội xuân. Tỉnh nào cũng có những lò vật để đào tạo những đô
vật nổi tiếng. Ở miền Bắc có hội vật Liễu Đôi ở Ninh Bình, hội vật Mai Động, Hà
Nội. Miền Trung có hội vật làng Sình thuộc Thừa Thiên. Cách tổ chức hết sức
nghiêm chỉnh vừa đê cao tinh thần thượng võ vừa khẳng định tính chất văn hóa.
Nói đến hội là nói đến vai trò của nữ. Cuộc sống ngày trước cách mạng bó
hẹp vào gia đình họ hàng, làng xã. Đặc biệt nữ giới vất vả suốt ngày, chợ búa,
cơm nước, giỗ chạp, rồi lo đồng áng, không có dịp tiếp xúc với nam giới, nhất
là nam giới ở ngoài làng minh. Chỉ ở một số làng thú cồng, thương nghiệp, họ
mới có điều kiện tiếp xúc hơn; nhưng ngay ở đây việc buôn bán, giao thiệp vẫn
thuộc các bà có chồng. Chính nhờ những dịp lề hội mà thanh niên nam nữ có dịp
gặp nhau, quen biết nhau, rồi yêu thương đi đến hôn nhân. Đặc biệt dưới sự che
chờ của lẻ. họ được tự do hơn, không bị ràng buộc như trong một xã hội tôn
ti luận kiểu Nho giáo. Chính vì vậy, nếu như các bà thích lẻ, thì thanh niên nam
nữ thích hội và các trò vui trong đó họ sẽ mặc quần áo đẹp nhất, gặp mọi người,
biếu diễn tài năng của mình, tạo nên những quan hệ vượt ra ngoài quan hệ xóm
giềng, thân tộc: diện mạo và thân phận của họ có dịp nâng cao và đổi mới.
Hội là dịp tốt nhất cho thanh niên nam nữ biểu lộ giá trị của minh
trước mọi người, mà trước hết là tranh thủ thiện cảm của người khác giới. Có
những trò để biểu diễn vẻ đẹp cơ thể như múa (múa đèn, múa hoa, múa mồi…), sức
lực và sự nhanh nhẹn (trò vật, múa côn. kiếm… của nam giới, kép co, chèo
thuyền, cướp cầu, các trò đu như: đu tiên, đu ngóc, đu bay), vẻ đẹp của dáng
điệu và y phục (cờ người). Nữ có dịp biểu lộ những sự khéo léo của mình trong
nghề nội trợ: thổi cơm, bánh trái, cỗ chay, cỗ mặn.